“Giá xe – chất lượng” – Bài toán của thị trường ô tô Việt Nam

Thị trường ô tô Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ sau gần 1/4 thế kỷ được bảo hộ. Tỷ lệ nội địa hoá thấp, quy mô sản xuất nhỏ. Chất lượng sản phẩm vẫn chưa tương xứng với giá thành. Thực trạng này vẫn là bài toán khó đối với cơ quan quản lý.

Trước giai đoạn chuyển giao quan trọng. Thị trường ô tô Việt Nam sẽ phải đối mặt với xe hơi nhập khẩu trong khu vực ASEAN hưởng thuế 0%. Thế nhưng các doanh nghiệp vẫn loay hoay trước câu hỏi nên đầu tư lắp ráp trong nước hay chuyển hẳn sang nhập khẩu nguyên chiếc.

Ngành công nghiệp xe hơi Việt Nam và các nước ASEAN

Thị trường ô tô Việt Nam đã làm gì trong 20 năm qua?

Đến thời điểm này, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã có tuổi đời khoảng 20 năm. Nếu tính theo vòng đời người thì cũng đủ tuổi trưởng thành. Thế nhưng thị trường ô tô Việt Nam 20 năm vẫn không chịu lớn.

Thực trạng là sau 20 năm được bảo hộ. Những chiếc xe hơi được lắp ráp trong nước lại có giá thành cao gấp đôi. Thậm chí còn gấp ba so với thị trường ô tô Mỹ. Dù cho được hưởng nhiều ưu đãi về thuế nhập khẩu linh kiện. Giá xe ô tô cao là vậy nhưng chất lượng xe lại tỷ lệ nghịch. % nội địa hoá chỉ từ 15-40, trong khi con số tương ứng tại quốc gia láng giềng Thái Lan là 80%.

Các nhà hoạch định đặt ra mục tiêu cho ngành là rất rõ ràng với mức đóng góp 10% GDP. Nhưng cho đến thời điểm này chỉ đạt khoảng 3%. Còn sản lượng sản xuất xe hơi chỉ đạt khoảng 1/3 con số đăng ký.

Ví dụ như năm 2005, ngành công nghiệp ô tô trong nước đặt mục tiêu sản xuất 120.000 chiế. Nnhưng chỉ đạt 59.200 chiếc. Đến năm 2010 đặt mục tiêu 239.000 chiếc. Nhưng thực tế mới chỉ đạt 112.300 chiếc. Và tương lai đến năm 2020 mục tiêu mới sẽ là 398.000 chiếc.

Kế hoạch và thực tiễn 20 năm sau của ngành công nghiệp ô tô Việt

Chi phí sản xuất ô tô

Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp cho biết. Chi phí sản xuất ô tô của Việt Nam hiện nay cao hơn tới 20% so với các nước khác trong khu vực ASEAN. Trong khi đó, công nghệ sản xuất ô tô không có nhiều cải thiện. Phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức nhập khẩu linh kiện về rồi lắp ráp. Đối với ngành công nghiệp phụ trợ gần như không có gì. Chỉ sản xuất linh kiện đơn giản như ắc quy hay lốp xe.

Thị trường ô tô Việt trắng tay vì sao?

Dù cho ngành công nghiệp xe hơi trong nước được Chính phủ bảo hộ. Nhưng chính sách bảo hộ không nhất quán cũng khiến các hãng có tâm lý “ì ạch” nội địa hoá. Điều này không kích thích được ngành công nghiệp phụ trợ phát triển.

Thuế cao

Ngược dòng quá khứ, trong giai đoạn 1991-2008. Thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc khoảng 90%, mức thuế nhập khẩu linh kiện chỉ 23%. Đến giai đoạn 2008-2015, hai con số trên lần lượt là 70% và 19%. Đến nay, thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ 47% -52%, còn thuế nhập khẩu linh kiện ô tô trung bình khoảng 18%.

Kẽ hở thuế phụ tùng

Bộ Tài chính đề xuất, năm 2018, thuế nhập khẩu linh kiện ô tô sẽ giảm về 0% nhằm tăng sức cạnh tranh cho xe hơi trong nước, trước sức ép khủng từ xe hơi nhập khẩu nguyên chiếc khu vực ASEAN.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp lắp ráp xe hơi trong nước còn được nhận ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm thuế giá trị gia tăng là 5% cho nhóm phụ tùng, máy móc sử dụng để lắp ráp ô tô.

Với những ưu ái dành cho xe hơi lắp ráp trong nước. Thì cũng chính là kẽ hở để các hãng lợi dụng. Thay vì sẽ tập trung nội địa hoá linh kiện để giảm giá thành. Các hãng sẽ tháo rời từng bộ phận xe hơi và nhập khẩu vào Việt Nam theo dạng bộ linh kiện nhằm hưởng mức thuế thấp từ Chính phủ.

Tỷ lệ nội địa hóa thấp

Mặt khác tỷ lệ nội địa hoá thấp nên giá thành xe hơi lắp ráp tại Việt Nam cũng cao hơn khoảng 20% so với xe sản xuất trong khu vực ASEAN, như vậy giá bán sản phẩm cũng cao hơn.

Thực trạng công nghệ của thị trường ô tô Việt

Thực trạng công nghệ áp dụng trong xe hơi Việt Nam cực kỳ lạc hậu. Dây chuyền sản xuất cũ, phụ thuộc vào sức người, năng suất không cao. Đó là những nguyên nhân khiến giá xe ô tô cao hơn mặt bằng chung. Phần lớn nhà máy lắp ráp xe hơi tại Việt Nam quá thô sơ. Mới chỉ dừng lại ở mức lắp ráp bằng tay, ít có sự hỗ trợ của máy móc hay robot.

Dây chuyền lắp ráp thô sơ chủ yếu dựa vào sức người
Công nhân thủ công

Trong khi đó với những chiếc xe thủ công thường là siêu xe hay xe siêu sang có mức giá bán đã được tính vào tiền công. Nhưng tại các nhà máy ở Việt Nam lại dùng công nhân làm thủ công để tạo những chiếc xe bình dân cho nên phần chi phí này được tính vào giá thành.

Công nghệ thô sơ

Bên cạnh đó, công nghệ thô sơ, thiếu máy móc. Khiến xe hơi lắp tại Việt Nam không đạt tiêu chuẩn an toàn. Đã có nhiều trường hợp túi khí không bung do lắp sai quy cách. Hoặc chất lượng linh kiện chưa được kiểm định. Hay những mối hàn không chắc. Thép mỏng nên chiếc xe bị bẹp dúm trong các vụ tai nạn giao thông.

Thế nhưng công bằng mà nói. Mọi nhà sản xuất đều là đơn vị kinh doanh. Việc đầu tiên trong kinh doanh là lợi nhuận. Chính vì vậy, doanh nghiệp sẽ tìm những phương án tối ưu nhất để thu hồi vốn do mình bỏ ra.

Đại diện một hãng xe hơi lớn tại Việt Nam chia sẻ. Sở dĩ giá xe hơi tại Việt Nam cao, tỷ lệ nội địa hoá thấp là do quy mô thị trường quá nhỏ hẹp. Mặc dù dân số Việt Nam gần 100 triệu người. Nhưng đa phần người dân Việt Nam đều ở mức nghèo hoặc cận nghèo. Với thu nhập trung bình chỉ đạt khoảng 2.000 USD/người/năm.

Thu nhập bình quên còn thấp

Hiện mức thu nhập trung bình của người dân ở các quốc gia trên thế giới để có thể sử dụng ô tô phải từ 6.000 USD/người/năm. Thế nhưng quy mô thị trường Việt nhỏ hẹp. Khiến các hãng sản xuất không mặn mà đặt nhà máy lớn để sản xuất linh kiện ở nước ta. Đối với các công ty phụ trợ cũng không nhìn thấy tương lai và lợi nhuận nên cũng không đầu tư. Như vậy, Việt Nam sẽ không thể có ngành công nghiệp phụ trợ đúng nghĩa. Khi tất cả đều phải nhập khẩu, khiến cho giá thành cao hơn.

Thuế phí xe hơi cao

Một lý do khác là chính sách áp dụng thuế phí đối với xe hơi quá cao làm đội giá bán sản phẩm. Dù cho giá trị thành phẩm của xe hơi lắp ráp tại Việt Nam cao hơn khoảng 20% so với khu vực nhưng mức giá ô tô sau thuế sẽ cao hơn 150%-200%.

Ô tô không phải một món đồ “phổ thông”

Mặt khác với hàng chục loại thuế, phí đè nặng lên chiếc xe hơi bởi quan niệm xe hơi là món đồ chơi xa xỉ của người giàu. Thế là một vòng luẩn quẩn quy mô thị trường nhỏ hẹp và giá xe cao đã khiến ngành công nghiệp xe hơi Việt Nam trắng tay sau 20 năm.

Hơn nữa, chính sách thuế, phí thay đổi tuỳ tiện, không nhất quán cũng khiến các nhà đầu tư hoang mang. Họ không thể bỏ ra cả trăm triệu USD để đánh cược với chính sách. Bởi chỉ cần một loại thuế suất thay đổi. Nhà máy trăm triệu USD có nguy cơ đóng cửa bất cứ lúc nào.

Năm 2018 đang tới gần, dù chưa có nhà sản xuất nào đứng ra tuyên bố sẽ bỏ lắp ráp trong nước. Nhưng với diễn biến thị trường ô tô những tháng đầu năm 2017 cho thấy. Cơ cấu thị trường ô tô Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch từ lắp ráp sang nhập khẩu.

Ví dụ như những dòng xe hơi ăn khách của Toyota như Fortuner được chuyển từ lắp ráp sang nhập khẩu nguyên chiếc từ Indonesia, còn Honda Civic nhập khẩu Thái Lan, hay Hyundai Grand i10 nhập khẩu từ Ấn Độ…

Bài toán chính sách dành cho ngành công nghiệp lắp ráp xe hơi Việt Nam sẽ khiến việc các nhà sản xuất ở lại hoặc bỏ lắp ráp, chuyển sang nhập khẩu nguyên chiếc là tương lai không thể tránh khỏi.